Mikhail Gorbachev – Tổng thống duy nhất của Liên Xô. Ảnh: Yuriy Somov/Sputnik
Bài viết liên quan:
- Nguồn gốc lịch sử đan xen lý giải tại sao Nga không thể buông Ukraine
- Ông Trump ra lệnh cấm và có thể xóa TikTok, WeChat khỏi cửa hàng ứng dụng Apple và Google
- Đại dịch Covid-19 đẩy quan hệ Mỹ-Trung đến bờ vực ‘Chiến tranh lạnh’
- Gã khổng lồ năng lượng Pháp bị kiện vì ‘đồng lõa với tội ác chiến tranh’
- Trung Quốc động thổ dự án hydro xanh lớn nhất thế giới
Mikhail Gorbachev, tổng thống đầu tiên và duy nhất của Liên Xô, đã qua đời ở tuổi 91 tại Moscow. Cái chết của ông đã được Bệnh viện Lâm sàng Trung ương thông báo vào tối thứ Ba, trong đó cho biết trong một thông báo rằng” Mikhail Sergeyevich Gorbachev đã qua đời vào tối nay sau một cơn bệnh nghiêm trọng và kéo dài”.
Theo hãng tin TASS, Gorbachev đã phải nhập viện ngay từ đầu đại dịch Covid-19, theo yêu cầu của các bác sĩ và đã được giám sát y tế kể từ đó.
Gorbachev sẽ được chôn cất tại Nghĩa trang Novodevichy ở Moscow bên cạnh vợ ông, Raisa, người đã qua đời năm 1999, TASS tiết lộ, trích dẫn một nguồn tin thân cận với mong muốn của gia đình.
Một nhân vật gây chia rẽ, những người ủng hộ cho rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh, trong khi những người phản đối cáo buộc ông hỗ trợ cho sự sụp đổ của Liên Xô và làm mất uy tín cũng như ảnh hưởng toàn cầu của Moscow.
Perestroika, glasnost, doanh nghiệp tư nhân và tổng thống
Sinh năm 1931 trong một gia đình nông dân ở miền nam nước Nga, ở tuổi thiếu niên, Gorbachev đã vận hành máy gặt đập liên hợp trong các trang trại tập thể. Sự nghiệp đảng của ông bắt đầu từ những năm sinh viên, khi ông theo học luật tại Đại học Tổng hợp Lomonosov Moscow. Sự thăng tiến của ông tương đối nhanh chóng, và vào năm 1985, ông trở thành Tổng bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đưa ông trở thành quan chức cấp cao nhất của Liên Xô.
Trong thời gian cầm quyền, Gorbachev đã nhắm tới mục tiêu tái tạo sức sống cho nền kinh tế Liên Xô đang bị đình trệ, vốn đã kém hiệu quả, chi tiêu quốc phòng quá mức và nạn tham nhũng đang gia tăng. Ông kêu gọi khẩn trương tổ chức lại và hiện đại hóa, nhưng sớm mở rộng cải cách đến cơ cấu chính trị và xã hội của cả quốc gia.
Chính sách ‘perestroika’ được công bố vào năm 1986 như một nỗ lực để tổ chức lại nền kinh tế. Perestroika mang tính chất của một phong trào chính trị hơn, việc “tái cấu trúc” nhằm mang lại sự độc lập hơn cho các bộ và các doanh nghiệp nhà nước lớn. Nó cũng giới thiệu một số cải cách theo kiểu thị trường tự do. Năm 1988, Gorbachev cho phép thành lập các doanh nghiệp tư nhân ở nước này lần đầu tiên kể từ “Chính sách kinh tế mới” của Vladimir Lenin vào những năm 1920.
Một chính sách khác được công bố là ‘glasnost’. Với chính sách này, Gorbachev nhằm mục đích mang lại sự minh bạch cho xã hội, giảm bớt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản đối với các phương tiện truyền thông và trả tự do cho các tù nhân chính trị. Đây là một sự thay đổi căn bản, vì quyền kiểm soát bài phát biểu trước công chúng là một phần thiết yếu của chế độ Xô Viết.
Gorbachev cũng đề xuất thay đổi hiến pháp để chuyển sang chế độ tổng thống và thành lập một cơ quan chính trị mới gọi là Đại hội Đại biểu Nhân dân. 2.250 thành viên đã được bầu trong cuộc bầu cử nghị viện nửa cạnh tranh đầu tiên của Liên Xô. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1990, sau một cuộc bỏ phiếu tại Đại hội Đại biểu Nhân dân, Mikhail Gorbachev trở thành tổng thống của Liên Xô.
Liên Xô rút khỏi Afghanistan, kết thúc Chiến tranh Lạnh
Chính sách đối ngoại của Gorbachev, còn được gọi là “tư duy mới”, đánh dấu một thời kỳ cải thiện đáng kể quan hệ giữa Liên Xô và các nước phương Tây, thay thế cho thời kỳ chiến tranh lạnh.
Năm 1986, ông công bố kế hoạch rút quân đội Liên Xô khỏi Afghanistan, nhưng phải mất ba năm nữa để hoàn thành việc rút quân.
Chiến tranh Xô-Afghanistan là một điểm chỉ trích chính đối với phương Tây. Nó cũng khiến Liên Xô thiệt hại ít nhất 15.000 thương vong, gây thêm căng thẳng cho một nền kinh tế kế hoạch quan liêu vốn đã tồi tàn và khiến đất nước ngập tràn những cựu chiến binh mắc chứng rối loạn căng thẳng do chiến đấu.
Mối quan hệ trở lại với phương Tây đã mở đường cho một số hiệp ước giải trừ quân bị quan trọng được ký kết. Moscow và Washington đã đồng ý dỡ bỏ các tên lửa hạt nhân và thông thường tầm trung của họ – những vũ khí rất chính xác có thể cám dỗ quân đội sử dụng vũ khí hạt nhân ở quy mô hạn chế, nhưng vẫn gây ra sự hủy diệt lẫn nhau trên toàn cầu. Dưới thời Gorbachev, Moscow đã đơn phương dừng mọi vụ thử hạt nhân.
Quan hệ của Mátxcơva với các nước Khối phía Đông cũng trải qua một sự thay đổi căn bản. Trước đó, quân đội Liên Xô luôn đóng vai trò là lập luận cuối cùng, nếu một trong các quốc gia thuộc Khối Warszawa thời Chiến tranh Lạnh cố gắng thay đổi lòng trung thành của mình. Nhưng sự tự do hóa của Gorbachev bao gồm quyền tự quyết cho các quốc gia đó. Đây được gọi đùa là “học thuyết Sinatra” theo tên ca sĩ Frank Sinatra, ám chỉ đến bài hát “My Way ” của anh ấy, vì các quốc gia được phép tự quyết định chính sách nội bộ của mình. Một loạt các cuộc cách mạng vào năm 1989 đã lật đổ các chế độ Cộng sản Châu Âu, và vào năm 1990, Tây và Đông Đức đã thống nhất lại thành một quốc gia.
Mikhail Gorbachev phát biểu tại Đại hội lần thứ 28 của Đảng Cộng sản Liên Xô vào tháng 7 năm 1990. Ảnh: Sergey Guneev/Sputnik
Vì những nỗ lực của mình trong việc xoa dịu căng thẳng quốc tế, Gorbachev đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1990.
Trong một tuyên bố kèm theo giải thưởng, Ủy ban Nobel nói rằng Tổng thống Liên Xô đã đóng một “vai trò hàng đầu” trong tiến trình hòa bình quốc tế.
Sự sụp đổ của bức tường Berlin
Gorbachev cũng nổi tiếng vì đã đóng vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của Bức tường Berlin, biểu tượng của một châu Âu bị chia cắt và thế giới bị chia cắt trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Sau khi chế độ Quốc xã sụp đổ do Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức đã trở thành hai quốc gia riêng biệt vào năm 1949. Cộng hòa Liên bang Đức (hoặc Tây Đức) được điều hành bởi các Đồng minh phương Tây, trong khi Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) do Liên Xô kiểm soát. Berlin nằm bên trong Đông Đức, nhưng nó được chia sẻ bởi cả Tây và Đông Đức, với Bức tường Berlin phân chia lãnh thổ của hai bang.
Cư dân Cộng hòa Dân chủ Đức phá bỏ Bức tường Berlin. Ảnh: Boris Babanov/Sputnik
Được xây dựng vào năm 1961, bức tường ngăn cách gia đình và những người thân yêu trong 28 năm. Cuối cùng nó đã bị lật đổ vào đêm ngày 9 tháng 11 năm 1989. Trong chuyến thăm Tây Đức vào đầu năm 1989, nhà lãnh đạo Liên Xô tuyên bố rằng mọi quốc gia đều có thể “ tự do lựa chọn hệ thống chính trị và xã hội của riêng mình” và Moscow sẽ “tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc để tự quyết”.
Sự sụp đổ của Bức tường Berlin đánh dấu buổi bình minh của một kỷ nguyên mới – sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và thế giới lưỡng cực – và nó mở đường cho sự thống nhất của nước Đức vào năm 1990.
Liên Xô sụp đổ
Việc dân chủ hóa một phần xã hội Liên Xô dưới thời Gorbachev đã dẫn đến sự gia tăng trong tình cảm dân tộc chủ nghĩa và chống Nga ở hầu hết 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô. Nhưng động lực giành độc lập này không phải lúc nào cũng hòa bình. Trong một số trường hợp, Matxcơva đã ra lệnh sử dụng vũ lực chống lại bạo loạn, vì chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa ở một số khu vực được coi là có khả năng gây ra bạo lực lớn hơn nhiều trong tương lai nếu chính phủ không hành động. Tuy nhiên, việc sử dụng vũ lực chỉ gây ra các cuộc biểu tình lớn hơn.
Các cuộc xung đột đóng băng ở các vùng dân tộc xung quanh đất nước, chẳng hạn như Nagorno-Karabakh và Trans-Dniester, cũng như cuộc chiến năm 2008 ở Nam Ossetia, là di sản của những sự kiện đó.
Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trong Liên Xô, Gorbachev đã cố gắng soạn thảo một hiệp ước liên minh mới. Tuy nhiên, một nhóm quan chức cấp cao cứng rắn của Liên Xô, những người tự xưng là Ủy ban Nhà nước về Tình trạng Khẩn cấp , đã cố gắng tổ chức một cuộc đảo chính và loại bỏ Gorbachev khỏi quyền lực để ngăn cản việc ký kết hiệp ước liên minh mới.
Cuộc đảo chính thất bại, nhưng nó đã thúc đẩy Gorbachev giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và từ chức Tổng Bí thư của đảng, cũng như giải tán tất cả các cơ quan đảng trong cơ cấu chính phủ, do đó chấm dứt hiệu quả sự cai trị của Cộng sản trong Liên Xô và loại bỏ lực lượng chính trị thống nhất chính của nó.
Liên Xô sụp đổ với tốc độ chóng mặt vào cuối năm 1991, khi hết nước cộng hòa Xô viết này đến nước cộng hòa khác tuyên bố độc lập. Vào tháng 12 năm 1991, các tổng thống của Nga, Ukraine và Belarus đã gặp nhau gần thị trấn Brest của Belorussia và ký kết Hiệp định Belavezha, chính thức tuyên bố Liên Xô giải thể và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) tại vị trí của nó.
Gorbachev ban đầu tố cáo động thái này là bất hợp pháp, nhưng sau đó trong cùng tháng đã thừa nhận điều đó và tuyên bố từ chức tổng thống.
Tranh cãi, những đóng góp hậu Xô Viết
Các chính sách của Gorbachev khiến ông nổi tiếng ở phương Tây, nhưng ở đất nước của mình, ông vẫn là một nhân vật gây tranh cãi cho đến ngày nay. Ông được nhiều người ca ngợi vì các sáng kiến giải trừ quân bị, thống nhất nước Đức, xúi giục sụp đổ Bức màn sắt và kết thúc Chiến tranh Lạnh, cũng như trao quyền tự quyết cho các nước Đông Âu.
Tuy nhiên, nhà lãnh đạo Liên Xô cũ cũng phải đối mặt với những lời chỉ trích đáng kể, chủ yếu ở quê nhà, từ những người tin rằng các chính sách của ông đã làm suy yếu Liên Xô và người kế nhiệm là Nga, và là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô.
Một số nhà phê bình đặc biệt nói rằng, bằng cách tiến tới với các sáng kiến giải trừ quân bị của mình, bao gồm cả các sáng kiến đơn phương, ông đã làm suy yếu sức mạnh quân sự và công nghiệp của Liên Xô, trong khi những người khác cáo buộc ông đã không ngăn được NATO mở rộng thêm về phía đông và cuối cùng tiếp cận biên giới của Nga.
Sau khi từ chức, Gorbachev đã thành lập Quỹ Quốc tế Phi Chính phủ về Nghiên cứu Kinh tế – Xã hội và Chính trị (The Gorbachev Foundation), vừa là một trung tâm nghiên cứu và diễn đàn thảo luận, vừa là một tổ chức phi chính phủ giám sát các dự án từ thiện nhân đạo.
Năm 1993, theo sáng kiến của đại diện 108 quốc gia, Gorbachev đã thành lập Green Cross International, một tổ chức phi chính phủ về môi trường, hiện có văn phòng tại 23 quốc gia trên thế giới.
Năm 1999, ông cũng trở thành một trong những người khởi xướng Hội nghị thượng đỉnh về những người đoạt giải Nobel Hòa bình, cuộc họp hàng năm để thảo luận về các mối đe dọa toàn cầu, chẳng hạn như bạo lực và chiến tranh, nghèo đói, tình hình khủng hoảng trong nền kinh tế thế giới và môi trường, theo website của Quỹ Gorbachev.
Từ năm 2001 đến 2009, Gorbachev cũng đồng chủ trì Đối thoại St.Petersburg, một diễn đàn Nga-Đức thường niên được tổ chức luân phiên ở cả hai nước và có sự tham dự của các chính trị gia, doanh nhân và thanh niên.
Theo Quỹ Gorbachev, cựu lãnh đạo Liên Xô cũng đã đến thăm khoảng 50 quốc gia kể từ năm 1992 và được trao hơn 300 giải thưởng, bằng cấp, chứng nhận danh dự và danh hiệu cao quý.
Gorbachev cũng đã viết hàng chục cuốn sách và được xuất bản bằng 10 thứ tiếng khác nhau.
“Tôi đã cố gắng hết sức để mang lại đạo đức và trách nhiệm cho mọi người. Đó là một vấn đề nguyên tắc đối với tôi. Đã đến lúc phải chấm dứt cơn thèm khát hoang dã của những kẻ thống trị và sự tôn nghiêm của họ. Có một vài điều tôi chưa thành công, nhưng tôi không nghĩ rằng mình đã sai trong cách tiếp cận của mình”, ông viết trong bài báo chính trị về đức tin của mình, được xuất bản bởi Gorbachev Foundation.
Không Ngộ